Ở bài trước chúng tôi đã đề cập đến tác hại của các vi sinh vật đối với tháp giải nhiệt và hóa chất khử trùng là clo và chlorine dioxide. Bài viết này đề cập tiếp đến các loại hóa chất khử trùng và hình thức khử trùng khác.

+ Brom: Brom được sản xuất hoặc do phản ứng của sodium hypoclorite với natri bromide. Ưu điểm của việc sử dụng brom so với clo là:

Có thể đạt hiệu quả cao hơn ở PH cao hơn

Liều lượng sử dụng thấp

Có hiệu quả kể cả khi nước có sự hiện diện của các hợp chất chứa nito và hữu cơ như metanol, và ethylene glycol

Thời gian bất hoạt các vi sinh vật ngắn hơn, tác động đến môi trường thấp hơn và giảm nguy cơ gây ăn mòn hệ thống

+ I ốt: Tương tự như clo và brom, i ốt là chất diệt khuẩn có tính oxy hóa mạnh, tuy nhiên sử dụng i ốt để diệt khuẩn là tương đối tốn kém

+ Ozone: Ozone là chất khử trùng có tính oxy hóa mạnh mẽ, nó có khả năng oxy hóa nhiều hợp chất hữu cơ và vô cơ. Ozone diệt vi khuẩn bằng cách làm vỡ thành tế bào, quá trình mà các vi sinh vật không thể phát triển khả năng miễn dịch. Ozone kiểm soát vi sinh vật hoàn thành bằng cách tiêu diệt ngay lập tức. Hiệu quả diệt khuẩn của ozone gấp 100 đến 300 lần so với clorin.

Ozone tồn tại thời gian ngắn trong nước thường ít hơn 10 phút, nó dễ dàng phân hủy thành oxy sau khi oxy hóa. Việc bố trí máy ozone phải đảm bảo ozone tiếp xúc đầy đủ với nước tuần hoàn, đối với hệ thống lớn cần bố trí nhiều điểm bổ sung ozone.

Sử dụng ozone là không phù hợp trong những trường hợp sau:

Tải trọng hữu cơ cao từ không khí, nước và từ sản xuất cần nhu cầu oxy hóa cao

Nhiệt độ nước cao: nhiệt độ nước cao vượt quá 43,30C  làm nồng độ ozone suy giảm làm giảm hiệu quả khử trùng

Hệ thống đường ống dài đòi hỏi thời gian nước lưu dài để đảm bảo duy trì nồng độ ozone

Trong môi trường bụi, khói và những nơi nóng như nồi hơi, nhà bếp, ống khói và khí thải

+ Hydrogen peroxide (H2O2): Là chất oxy hóa mạnh hơn clorin và chlorine dioxdie nhưng kém hơn so với ozone. Các chất xúc tác như sắt, đồng hoặc hợp chất của các kim loại khác có thể được thêm vào hydrogen peroxide để tạo ra các gốc hydroxyl cho quá trình oxy hóa nghiêm ngặt hơn. Đây là phương pháp tiêu diệt mạnh mẽ nhất các vi sinh vật và các chất hữu cơ vi lượng trong nước.

Hydrogen peroxide dễ dàng phân hủy thành nước và oxy. Vì vậy sử dụng nó là phương pháp đơn giản và hiệu quả so với việc sử dụng hóa chất thông thường khác mà không gây ra phát sinh chất ký hoặc vấn đề dư hóa chất trong nước.

Tuy nhiên hydrogen peroxide tan hoàn toàn trong nước , nó có thể gây ra vấn đề mất an toàn nếu nồng độ cao >8% H2O2 theo trọng lượng được sử dụng. Vì vậy khi sử dụng chất này cần có biện pháp phòng ngừa đảm bảo an toàn trong lưu trữ, phân phối, vận chuyển.

`Tóm lại sử dụng chất oxy hóa để khử trùng nhằm duy trì mức độ khử trùng liên tục trong hệ thống. Liều dùng có thể được điều chỉnh để đáp ứng với việc kiểm tra thường xuyên bằng thiết bị điều khiển tự động. Việc kiểm tra và điều chỉnh là cần thiết vì nếu nồng độ chất khử trùng cao có thể gia tăng ăn mòn thiết bị và ảnh hưởng bất lợi đến hiệu suất xử lý nước. Vì chất oxy hóa khử trùng có thể gây ăn mòn nên chất ức chế ăn mòn có thể được thêm vào và được lựa chọn trên cơ sở tương thích giữa hai loại hóa chất.

Ở bài viết sau chúng tôi sẽ đề cập đến sử dụng chất khử trùng không phải là chất oxy hóa cho tháp giải nhiệt là khử trùng tháp giải nhiệt bằng tia cực tím uv

xu ly nuoc cap