Keo tụ và tạo bông là công đoạn cần thiết cho bất kỳ hệ thống xử lý nước nào. Trong xử lý nước thải keo tụ, tạo bông đóng vai trò quan trọng trong việc làm giảm chất rắn lơ lửng, chất hữu cơ lơ lửng, loại bỏ tác nhân gây bệnh, loại bỏ các chất vô cơ, loại bỏ phốt pho ..

Hóa chất keo tụ tạo bông  thường gồm hai nhóm chính: Nhóm có thành phần là nhôm và nhóm có thành phần là sắt. Các chất keo tụ có nhôm bao gồm: Nhôm sunfat ( Phèn nhôm), nhôm clorua, và natri aluminat. Nhóm chất keo tụ sắt bao gồm: Sắt sunfat, sắt clorua và sunfat sắt clorua. Hóa chất  khác cũng được sử dụng như chất keo tụ bao gồm vôi và magnesium cacbonat

Hiệu quả của nhóm keo tu nhôm và sắt phát sinh chủ yếu từ khả năng tạo tính đa phức polynuclear với tăng cường hấp phục. Bản chất của hình thành phức hợp có thể được kiểm soát bởi PH của hệ thống.

Khi chất keo tụ kim loại được thêm vào nước các ion kim loại nhôm và sắt thủy phân nhanh chóng, khi kiểm soát được tạo thành một loại các chất trợ keo tụ. Hiệu quả của quá trình pha trộn nhanh, độ PH và liều lượng chất kết tủa cho phép tạo thành chất trợ keo tụ có hiệu quả để xử lý.

Các chất trợ keo tụ bao gồm nhôm chlorohydrate, polyaluminum clorua, sunfat polyaluminum clorua, clorua polyaluminum silicat và các hình thức của polyaluminum clorua với các polyme hữu cơ. Hợp chất sắt bao gồm sunfat polyferric và muối sắt với polymer, ngoài ra còn có polyme hỗn hợp nhôm sắt.

Ưu điểm chính của chất keo tụ vô cơ là nó hoạt động hiệu quả trên phạm vi rộng về nhiệt độ, PH và chất lượng nước thô. Nó ít nhạy cảm hơn với nhiệt độ nước thấp, liều lượng thấp hơn được yêu cầu để đạt được mục tiêu xử lý nước, ít tạo ra dư hóa chất, clorua và sunfat dư ít hơn dẫn đến TDS nước cuối cùng thấp hơn.

Polymer ( PAM)  là phạm vi rộng của các hợp chất cao phân tử tự nhiên hoặc tổng hợp có khả năng gây mất ổn định hoặc tăng cường tạo bông. Cơ chế quan trọng liên quan đến polyme trong khi điều trị bao gồm các hiệu ứng tĩnh điện và bắc cầu. Polyme có trong các hình thức bột, hạt, dầu hoặc nhũ tương.

Mật độ diện tích polymer ảnh hướng đến cấu hình: một cho trọng lượng phân tử, tăng mật độ diện tích trải dài các chuỗi polymer thông qua việc tăng lực đẩy tĩnh điện giữa các đơn vị.

Một mối quan tam với loại polymer tổng hợp liên quan đến vấn đề độc tính tiềm năng, thường phát sinh từ monome không phản ứng còn lại. Tuy nhiên tỷ lệ các monome không phản ứng có thể được kiểm soát trong quá trình sản xuất và lượng tồn trong nước được xử lý thấp.

Phèn nhôm